TCVK. Là nhà khoa học đã nhiều năm đồng hành với sự nghiệp phát triển kinh tế biển, PGS.TS Võ Sĩ Tuấn – Nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam, hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA), Chủ tịch Hội đồng Tư vấn KHCN Nuôi biển Việt Nam, biển như đã ngấm vào máu thịt và chính là nơi ông tìm thấy hạnh phúc của đời mình. Ông đã chia sẻ với phóng viên Tạp chí Vươn Khơi bao điều thú vị về rạn san hô dưới đáy đại dương. Xin được trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
PV: Là một nhà nghiên cứu hải dương học, xin ông cho biết những giá trị và vai trò của san hô dưới đáy đại dương?
PGS.TS Võ Sĩ Tuấn: Rạn san hô là hệ sinh thái đa dạng nhất của đại dương và là một trong những hệ sinh thái đa dạng nhất trên hành tinh chúng ta. Các rạn san hô tuy chỉ chiếm chưa tới 1% diện tích đại dương nhưng lại có tới 25% số sinh vật biển sống ở đó, nhiều đến mức người thường ví những rạn san hô như những khu rừng nhiệt đới dưới đáy biển.


San hô là thành phần chính thành tạo nên rạn san hô. Có rất nhiều loại san hô với hình dạng khác nhau, chẳng hạn san hô cứng có thể trông giống vỏ não (san hô não), hình sao, hình cành cây (san hô cành), hình đĩa,… Một số loại san hô mềm bao gồm san hô quạt, bút biển – trông giống như chiếc bút lông chim,…Rạn san hô giống như những thành phố thu nhỏ của các loài sinh vật biển. Trong thế giới đại dương, các rạn san hô cung cấp nơi trú và thức ăn cho khoảng 4000 loài cá, 800 loài san hô và hàng trăm loài sinh vật biển khác.
Rạn san hô là một trong những hệ sinh thái đặc sắc của biển Việt Nam, nơi có đa dạng sinh học rất cao, cảnh quan kỳ thú. Các rạn san hô của Việt Nam phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam với diện tích khoảng hơn 1100 km2, trong đó biển miền Trung và miền Nam có diện tích san hô lớn nhất và tính đa dạng sinh học lớn nhất.
San hô ở Việt Nam rất đa dạng, với khoảng 400 loài san hô cứng thuộc 79 giống. Quần xã san hô ở Việt Nam hoàn toàn có thể được so sánh với các vùng san hô đa dạng nhất trên thế giới.
PV: Rạn san hô có giá trị vô cùng lớn với biển cả, với con người. Tuy nhiên, chúng luôn là đối tượng bị đe dọa, vậy mối nguy nào lớn nhất với các rạn san hô hiện nay thưa ông?
PGS.TS Võ Sĩ Tuấn: Nói chung, hệ sinh thái rạn san hô có cấu trúc rất phức tạp và rất nhạy cảm với sự đe dọa của môi trường. Khi san hô còn là ấu thể, chúng có thể dễ dàng trở thành mồi ngon của nhiều động vật biển. Khi đã phát triển bộ xương, chúng không còn là món ăn ngon cho những động vật này nữa, tuy nhiên, cũng có một số loài cá, sâu biển, ốc và sao biển lùng bắt san hô trưởng thành. Đặc biệt, ở nhiều vùng biển thuộc Thái Bình Dương, loài sao biển gai là những kẻ săn san hô vô cùng tích cực. Sự bùng nổ của sao biển gai với hàng chục ngàn con sao biển có thể bao phủ một rạn san hô, phá hủy rạn san hô nhanh chóng chỉ trong vòng chưa đầy một năm. Nhiều rạn san hô ở miền Trung nước ta đã bị ảnh hưởng bởi sao biển gai trong những năm gần đây, với sự suy giảm đáng kể của các rạn san hô do sự bùng phát của sao biển.
Một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với san hô là chính hiện tượng bạc màu (mất lớp sắc tố) hay còn gọi là tẩy trắng. Hiện tượng này xảy ra khi nhiệt độ nước biển bề mặt tăng lên ảnh hưởng tới sự sống của tảo zooxanthellae cộng sinh với san hô. Nhiệt độ nước biển trên 30oC có thể gây ra quá trình tẩy trắng. Hiện tượng tẩy trắng kéo dài có thể giết chết các quần xã san hô hoặc khiến chúng dễ bị tổn tương trước các mối đe dọa khác. Trong những năm gần đây, nhiều rạn san hô nhiệt đới đã suy thoái do san hô bị tẩy trắng hoặc chết.

Quá trình axit hóa đại dương – nước biển tăng tính axit – cũng khiến san hô khó có thể hình thành khung xương canxi cacbonat. Nếu quá trình axit hóa diễn ra với tốc độ nhanh hơn, những cấu trúc xương đã hình thành của các rạn san hô cũng có thể bị phá vỡ.
Tuy nhiên, tác động trực tiếp gây suy thoái rạn san hô chính là hoạt động của con người. Diện tích và chất lượng của san hô và các rạn san hô đã và đang giảm đi đáng kể cùng với sự gia tăng của các hoạt động trên biển và ven biển. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rạn san hô ở nhiều vùng của Việt Nam đang xấu đi do tác động cả tự nhiên và nhân tạo, trong đó chủ yếu là khai thác san hô, đánh bắt quá mức, du lịch, san lấp, nạo vét,… ở những vùng biển có rạn san hô. Các nhân tác này còn làm giảm khả năng thích ứng, chống chịu của san hô với các tác động do biến đổi khí hậu như gia tăng nhiệt độ nước biển, a xit hóa đại dương.
Ngay cả các hoạt động diễn ra xa các rạn san hô cũng có thể có tác động không nhỏ. Nước thải từ các vùng ven biển, từ thành phố, các trang trại,… có thể khiến rong tảo sinh sôi quá nhanh, lấn át các rạn san hô. Nạn phá rừng cũng làm xói mòn đất, nước mang đất ra biển và tạo thành trầm tích bao phủ lên các rạn san hô.
PV: Vậy còn những rạn san hô ở vùng biển Khánh Hòa hiện nay ra sao, thưa ông?
PGS.TS Võ Sĩ Tuấn: Rạn san hô trong vùng ven bờ Khánh Hoà chủ yếu phân bố trong vùng nước nông ven bờ đất liền và ven các đảo. Một số khu vực có sự tồn tại của một số bãi rạn ngầm như bãi cạn lớn Grandbank – vịnh Nha Trang, bãi cạn Thủy Triều – Bắc Cam Ranh với diện tích khá lớn được hình thành từ độ sâu 10 – 40 m và nhô lên đến độ sâu 3 – 4 m so với mức nước biển cũng được ghi nhận trong vùng biển này. Rạn san hô Khánh Hòa cũng chịu những tác động gây suy thoái như đã đề cập. Đặc biệt, áp lực của phát triển du lịch đối với rạn san hô ngày càng gia tăng.
Các kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của Viện Hải dương học đã phản ánh hiện trạng, xu thế biến động rạn san hô trong Khu Bảo tồn vịnh Nha Trang. Khảo sát vào năm 2015 cho thấyđộ phủ rạn san hô ở vịnh Nha Trang có thể chia làm 3 nhóm: Nhóm có độ phủ cao là khu vực Hòn Mun đạt giá trị bậc 4 (độ phủ 51 – 75%); nhóm có độ phủ trung bình là Bãi Bàng, Hòn Vung và Hòn Tằm đạt giá trị bậc 2 (10 – 30%) và nhóm có độ phủ thấp là các điểm còn lại đạt giá trị bậc 1 (dưới 10%). Kết quả đánh giá tại các điểm giám sát cố định ở vịnh Nha Trang cho thấy các điểm giám sát nằm trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt đều có giá trị độ phủ san hô cứng cao và duy trì độ ổn định theo thời gian từ 2002 – 2015. Trong khi đó, phần lớn các điểm giám sát nằm bên ngoài vùng bảo vệ nghiêm ngặt đều có biến động theo chiều hướng giảm. So sánh số liệu giám sát cho thấy xu thế suy giảm rõ rệt của san hô. Theo đó, độ phủ trung bình của san hô giảm từ 40% vào năm 1994 xuống 24% vào năm 2007 và xuống 19% vào năm 2015. Khảo sát mặt rộng vào năm 2017-2018 cho bức tranh trái ngược nhau, độ phủ san hô duy trì ở mức rất cao ở Hòn Mun nhưng giảm sút nghiêm trọng ở một số vùng rạn khác, nhất là sau cơn bão vào tháng 11 năm 2017. Về mất mát hệ sinh thái, diện tích rạn san hô suy giảm từ 754ha xuống còn 636,6ha vào năm 2015 (giảm 117,4ha, tương đương 13,5% mất đi so với tổng diện tích vốn có). Cũng cần lưu ý là cảnh quan rạn san hô ngày càng nghèo nàn do không còn nhiều cá và các sinh vật đáy.

Sự suy thoái rạn san hô trong vịnh có nhiều nguyên nhân như: Khai thác hủy diệt bằng chất nổ, xyanua (hiện nay không còn); ô nhiễm môi trường (các hoạt động du lịch, xả thải, nuôi trồng thủy sản…) làm thay đổi điều kiện sống, xuất hiện san hô bị bệnh, bùng nổ sinh vật ăn san hô (sao biển gai) và hiện tượng ưu dưỡng (phú dưỡng) cục bộ; hiện tượng tẩy trắng san hô và các tai biến thiên nhiên (bão, lũ)…Việc mất mát diện tích rạn san hô chủ yếu là do quá trình san lấp, xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch và dân sinh tại các vùng ven bờ và ven đảo. Việc san lấp không chỉ làm mất diện tích rạn san hô mà còn đưa lượng trầm tích ra biển, gây lắng đọng trên bề mặt rạn làm san hô bị chết, gây suy thoái các vùng rạn khác.
Thời gian qua, Viện Hải dương học đã thử nghiệm phục hồi san hô ở vịnh Nha Trang, đã xác định 9 loài san hô cứng có khả năng phục hồi với tỷ lệ sống đạt trên 60%, tốc độ tăng trưởng trung bình từ 0,4 – 6,5mm/tháng. Kết quả này mang lại những hiệu quả nhất định, góp phần giảm thiểu những tác động bất lợi đối với rạn san hô, cải thiện các vùng rạn bằng cách làm gia tăng độ phủ của san hô, gia tăng giá bám bền vững cho san hô tái phục hồi và tạo môi trường ổn định cho sự phát triển của quần xã sinh vật rạn. Tuy nhiên, so sánh với các khu vực phục hồi khác ở vùng biển Việt Nam như Lý Sơn, Bình Định, Côn Đảo thì tỷ lệ sống của san hô phục hồi ở vịnh Nha Trang không cao. Một số nguyên nhân được xác định như: Địch hại của san hô, sự cạnh tranh không gian giữa các loài, chất lượng môi trường thay đổi do hoạt động gián tiếp từ con người và các yếu tố khác như chế độ động lực
PV: Vậy đề bảo vệ rạn san hô dưới đáy đại dương, ông có lời khuyên gì cho cộng đồng ngư dân, khách du lịch nói chung và người nuôi biển nói riêng thưa ông?
PGS.TS Võ Sĩ Tuấn: Các khu bảo tồn biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ san hô, trong đó quan trọng nhất là có một quần xã cá khỏe mạnh và bảo đảm nguồn nước biển sạch sẽ cho san hô phát triển. Cá có vai trò quan trọng đối với các rạn san hô, đặc biệt là các loài cá ăn rong biển và giữ cho rong biển không mọc lấn lên san hô, cũng như các loài cá thịt cũng khiến cho sao biển gai không thể phát triển và ăn san hô. Những khu vực rạn san hô được bảo vệ nghiêm ngặt thường có những quần xã san hô khỏe mạnh hơn và có khả năng phục hồi tốt hơn sau thiên tai. Do đó, bạn hãy ủng hộ các khu bảo tồn biển hoặc tham gia các chương trình bảo tồn rạn san hô nếu có thể nhé!

Độ sạch của nước cũng rất quan trọng đối với sự tồn tại của san hô. Nước thải từ đất liền qua các con sông chảy ra biển mang theo bùn đất, chất dinh dưỡng,… làm tăng tốc độ tăng trưởng của tảo và một số loài ăn thịt san hô. Do đó, việc sử dụng đất hiệu quả, tránh sử dụng quá nhiều phân bón hóa học và hạn chế xói mòn do chặt phá rừng và xây dựng,… cũng làm giảm bớt lượng nước mang nhiều trầm tích đổ vào các vùng biển có san hô. Mỗi người trong chúng ta cũng có thể giúp giữ sạch nguồn nước bằng cách sử dụng tiết kiệm nước, giảm lượng nước thải,… trước khi chúng được đổ ra biển.
Tuy nhiên, về lâu dài, tương lai của các rạn san hô sẽ phụ thuộc vào việc làm giảm lượng khí cacbon điôxit (CO2) trong khí quyển. Khí CO2 sản sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch đã và đang khiến đại dương nóng lên, dẫn đến hiện tượng tẩy trắng san hô và thay đổi tính axit của nước. Mỗi chúng ta đều có thể hạn chế lượng phát thải khí CO2 bằng nhiều cách, như tiết kiệm năng lượng, sử dụng các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường,…
Nếu có dịp đi du lịch tại những vùng biển có san hô, bạn hãy cùng những người xung quanh bảo vệ các quần xã san hô: Từ chối mua bán san hô sống, các loài cá rạn,… về làm cảnh. Cần hoàn thiện kĩ năng cân bằng của bạn khi đi lặn. Kĩ năng cân bằng tốt sẽ giúp bạn không đụng chạm phải thứ gì khi ở dưới nước. Một người lặn biển khi chạm vào san hô có thể không gây ra nhiều ảnh hưởng, nhưng hãy nhớ rằng bạn chỉ là một trong vài ngàn người lặn ở điểm đó trong vòng một năm. Không nên mang theo gậy chỉ và bao tay của bạn. Không chạm, giẫm đạp lên san hô khi lặn biển cũng là những việc làm rất có ích đối với san hô.
Cần tôn trọng không gian cá nhân của sinh vật biển ở rạn san hô. Những hành đông tưởng chừng như là đừa giỡn với chúng ta, nhưng thực tế có thể gây ra căng thẳng cho sinh vật biển. Ví dụ như, cá hề nổi tiếng với việc bảo vệ lãnh thổ của mình. Khi một chú cá hề bơi về phía bạn, có nghĩa là chúng đang bảo vệ bụi hải quỳ nơi chúng và gia đình đang sinh sống. Rùa biển cần hít thở không khí trên mặt nước để sống, nhưng phản xạ của chúng khi bị hoảng sợ là lặn xuống sâu. Nếu chúng quá sợ hãi, chúng có thể không dám quay lại mặt nước để hít thở. Hành động của chúng ta có thể gây ra hiệu ứng kéo dài ngay cả ngay khi chúng ta đã lên khỏi mặt nước, vì vậy lưu ý rằng chúng ta là những “vị khách không mời” dưới biển và nên chú ý cách cư xử của mình. Không nên làm các sinh vật biển hoảng sợ bằng viêc động chạm, rượt đuổi, hay đến quá gần chúng.
Hãy du lịch biển theo nguyên tắc “không giết gì ngoài thời gian, không lấy gì ngoài những bức ảnh và không để lại gì ngoài những bọt khí lăn tăn”.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Diệp Anh thực hiện